VIRUS HỢP BÀO HÔ HẤP
NelsonTextbook of Pediatrics 2016
Virus hợp bào hô hấp (RSV) là nguyên nhân chính gây viêm tiểu phế quản và viêm phổi do virus ở trẻ em (TE) dưới 1 tuổi và là tác nhân gây bệnh đường hô hấp quan trọng nhất của trẻ nhỏ.
NGUYÊN NHÂN
RSV là virus RNA có vỏ bọc với bộ gene xoắn đơn, đối mã, mô phỏng hoàn toàn trong bào tương của tế bào bị nhiễm và trưởng thành do mọc từ bề mặt đỉnh của màng tế bào. Do virus này có một bộ gene không thể tách mảnh, nên không thể chuyển kháng nguyên bằng tái hấp phụ như là virus cúm. Virus thuộc họ Paramyxoviridae, cùng với virus sởi và virus á cúm, thuộc chi Pneumoviridae. Có 2 phân nhóm kháng nguyên (KN) của RSV, phân biệt chủ yếu dựa vào biến thể ở 1 trong 2 protein bề mặt, dựa vào Glycoprotein G chịu trách nhiệm bám dính. Biến thể KN do đột biến điểm từ sự không chung thủy của Polymerase của virus có thể góp phần vào tần suất tái nhiễm ở TE và người lớn.
DỊCH TỄ HỌC
RSV phân bố khắp thế giới và xuất hiện thành dịch hằng năm. Ở những nước nhiệt đới, những vụ dịch này xảy ra vào mùa đông, kéo dài 4-5 tháng. Trong suốt những tháng còn lại, nhiễm RSV rải rác và ít thông thường hơn nhiều. Ở bán cầu Bắc, dịch thường lên đỉnh vào tháng 1,2 hay tháng 3 nhưng đỉnh dịch cũng được ghi nhận vào tháng 12 và tháng 5. Vài vùng ở Mỹ, như là Florida, báo cáo tỷ lệ mắc mới tương đối xảy ra quanh năm. Ở bán cầu Nam, các đợt bùng phát cũng thường xảy ra suốt mùa đông. Các đợt bùng phát do RSV thường trùng với các đợt cúm và Metapneumovirus nhưng nói chung dai dẳng hơn từ năm này sang năm khác và dẫn đến toàn bộ số lượng bệnh nhiều hơn, đặc biệt trẻ dưới 6 tháng tuổi. Ở các vùng nhiệt đới, mô hình dịch ít rõ ràng. Đó là các đợt bùng phát lan rộng hằng năm và tỷ lệ mắc mới cao ở trẻ 3-4 tháng tuổi là độc nhất trong số các virus gây bệnh ở người.
Kháng thể (KT) IgG kháng RSV mắc phải trong huyết thanh của mẹ, nếu có ở nồng độ cao, dường như bảo vệ cho con nhưng không hoàn toàn. Những IgG này có lẽ làm giảm mức độ nặng của nhiễm trùng (NT) do RSV trong 4-6 tuần đầu tiên của sự sống, ngoại trừ trẻ đẻ non nhận IgG từ mẹ ít hơn. Bú mẹ cung cấp sự bảo vệ đáng kể chống lại bệnh nặng, một hiệu quả có lẽ gắn liền chỉ với trẻ gái mà không phải trẻ trai. RSV là một trong các virus gây bệnh lây nhiễm nhiều nhất. NT gần như khắp nơi trong số trẻ vào mngayf sinh lần thứ 2 của chúng. Tái nhiễm xảy ra ít nhất 10-20% / vụ dịch vào khắp tuổi trẻ, với tần số thấp hơn ở người lớn. Trong trường hợp phơi nhiễm cao như trung tâm chăm sóc trẻ, mức độ virus tấn công là gần như 100% trong số trẻ chưa được nhiễm trước đó và 60-80% trẻ bị nhiễm lần 2, lần 3.
Tái nhiễm có thể xảy ra sớm một vài tuần sau khi hồi phục, nhưng thường xảy ra vào đợt bùng phát hằng năm sau đó. Biến thể kháng nguyên không cần thiết cho sự tái nhiễm, như đã được chỉ ra bởi sự thật rằng một tỷ lệ người lớn được chủng lặp lại bởi cùng chế phẩm thực nghiệm của virus hoang dại có thể bị tái nhiễm nhiều lần. Đáp ứng miễn dịch (MD) của trẻ nghèo về chất lượng, mức độ và thời hạn. Độ nặng của bệnh suốt thời gian tái nhiễm thường thấp hơn và dường như là một chức năng của MD mắc phải từng phần, sinh lý đường hô hấp khỏe hơn và tuổi lớn hơn.
Nhiễm RSV không triệu chứng thì không thường gặp ở trẻ nhỏ. Hầu hết trẻ biểu hiện sổ mũi và viêm họng, thường sốt và có viêm tai giữa do virus hay bội nhiễm vi khuẩn sau khi vòi Eustach suy chức năng. Đường hô hấp dưới bị ảnh hưởng ở nhiều mức độ khác nhau với viêm tiểu phế quản, viêm phế quản phổi vào khoảng 1/3 số trẻ. Mức độ nhập viện do NT RSV ở trẻ nhũ nhi khỏe mạnh vào khoảng 0,5-4%, tùy thuộc vào vùng miền, giới tính, điều kiện kinh tế xã hội, phơi nhiễm thuốc lá, tuổi thai và tiền sử dị ứng gia đình. Chẩn đoán lúc vào viện thường là viêm tiểu phế quản với thiếu oxy máu, dù tình trạng này thường không thể phân biệt với viêm phổi do RSV ở trẻ nhũ nhi, và vì thế, cả 2 quá trình đều thường tồn tại cùng nhau. Tất cả bệnh đường hô hấp dưới do RSV (trừ Croup) có tỷ lệ mắc mới cao nhất vào 6 tuần đến 7 tháng tuổi và giảm dần về tần suất sau đó. Hội chứng viêm tiểu phế quản ít gặp hơn nhiều sau 1 tuổi. Thuật ngữ được sử dụng cho chẩn đoán bệnh khò khè do virus ở trẻ mới tập đi còn lộn xộn, vì những bệnh này được gọi nhiều tên khác nhau: NT hô hấp liên quan đến khò khè, Viêm tiểu phế quản khò khè, đợt bệnh đường hô hấp phản ứng, hay cơn hen. Do nhiều cơn khò khè ở trẻ mới tập đi khi nhiễm RSV nhưng không bị hen sau đó nên tốt nhất là chỉ sử dụng thuật ngữ Hen trong những năm sau này. Viêm phổi cấp do virus là vấn đề tái diễn suốt tuổi nhỏ, dù rằng RSV ngày càng ít nỗi bật là tác nhân gây bệnh khi trẻ sau 1 tuổi. RSV là nguyên nhân của 40-75% ca viêm tiểu phế quản nhập viện, 15-40% ca viêm phổi TE và 6-15% ca Croup.
Viêm tiểu phế quản và viêm phổi do RSV thường gặp hơn ở trẻ nam với tỷ lệ xấp xỉ 1,5:1. Các yếu tố nguy cơ khác với tác động tương tự bao gồm 1 hay hơn anh chị em sinh đôi trong nhà, da trắng, nông thôn, mẹ hút thuốc và trình độ văn hóa của mẹ < 12 tuổi. Các yếu tố khác là bệnh phổi mãn tính ở trẻ đẻ non, bệnh tim xung huyết, suy MD, trẻ đẻ non. Nhiều trẻ vào viện do NT RSV mà không có yếu tố nguy cơ được nhận biết dễ dàng. Vì thế, chiến lược dự phòng chỉ tập trung váo các cá nhân với yếu tố nguy cơ rõ ràng có thể chỉ ngăn cản xấp xỉ 10% cas vào viện, thậm chí nếu chiến lược đó có hiệu quả 100% cá thể có nguy cơ cao.
Thời gian ủ bệnh 3-5 ngày, virus đào thải vào những khoảng thời gian khác nhau, có lẽ tùy thuộc vào độ nặng của bệnh và tình trạng MD. Nhiều trẻ NT đường hô hấp dưới thải ra virus trong 1-2 tuần sau khi vào viện. Sự đào thải trong 3 tuần và thậm chí lâu hơn, đã được báo cáo. Lây truyền virus xảy ra khi các hạt NT lớn, hoặc trong không khí hoặc trên bàn tay hay đồ vật, được đưa vào mũi họng đối tượng cảm thụ. RSV có lẽ được lây truyền vào nhiều gia đình bởi học sinh trẻ sau khi bị tái nhiễm. Điển hình, trong khoảng cách một vài ngày, 25-50% anh chị và cha mẹ mắc phải NT đường hô hấp trên, nhưng trẻ nhũ nhi trở nên bệnh nặng hơn với sốt, viêm tai giữa hay bệnh đường hô hấp dưới.
NT bệnh viện trong các vụ dịch do RSV là vấn đề quan trọng. Virus được lây truyền từ trẻ này sang trẻ khác qua bàn tay nhân viên phục vụ hoặc đồ đạc khác. Người lớn bị tái nhiễm cũng có thể truyền bệnh. Chú ý khi tiếp xúc là đủ để ngăn cản lây truyền khi tuân thủ tỉ mỉ vì virus thường không lây truyền qua những giọt bắn nhỏ.
BỆNH SINH
Viêm tiểu PQ được gây ra bởi tắc nghẽn và xẹo đường thở nhỏ trong thì thở ra. Trẻ nhỏ đặc biệt thích hợp để trải nghiệm tắc nghẽn đường thở nhỏ bởi vì kích thước tiểu PQ của chúng bình thường đã nhỏ, đề kháng đường thở tỷ lệ với 1/(bán kính)× 4. Hẹp đường thở có khả năng được gây ra bởi hoại tử lớp biểu mô tiểu PQ do virus, tăng tiết chất nhầy, thâm nhập tế bào tròn (round-cell) và phù nề lớp màng nhầy bao quanh. Những thay đổi này dẫn đến những tiểu PQ tắc nghẽn bởi nút nhầy, hậu quả tăng phồng hoặc xẹp mô phổi ở xa. Trong viêm phổi kẽ, sự thâm nhập lan tỏa hơn và lớp biểu mô có thể tiến đến cả hai phế quản và các phế nang. Ở người lớn hơn, sự quá mẫn cơ trơn góp phần làm hẹp đường thở, nhưng đường thở của trẻ nhũ nhi nhỏ không có tăng cao mức độ nhạy cảm cơ trơn khi nhiễm RSV.
Vài sự thật gợi ý rằng các yếu tố của đáp ứng vật chủ có thể gây viêm và góp phần gây tổn thương mô. Đáp ứng MD cần để loại trừ tế bào nhiễm virus là một con dao 2 lưỡi ( double edged sword), quá trình này làm giảm tế bào sinh virus nhưng gây chết tế bào vật chủ. Một số lớn các yếu tố hòa tan như là cytokin, chemokin, và leukotriene được giải phóng ra trong quá trình này và sự lệch lạc của mô hình đáp ứng này có thể làm cho một vài cá thể tiến đến tình trạng bệnh nặng hơn. Cũng có bằng chứng cho rằng các yếu tố gene có thể làm cho viêm tiểu PQ nặng hơn nhiều.
TE được tiêm vaccin RSV bất hoạt bằng Formalin vào những năm 1960 đã trải qua bệnh nặng viêm tiểu PQ nặng và thường xuyên hơn khi phơi nhiễm tự nhiên, sau đó với RSV hoang dã khi so với nhóm chứng cùng tuổi. Vài trẻ tử vong trong quá trình nhiễm RSV mắc phải sau vaccin. Sự kiện này đã cản trở nhiều đến quá trình phát triển vaccin, do cả hiểu biết không đầy đủ về cơ chế lẫn sự miễn cưỡng phải test vaccin thực nghiệm mới mà có thể gây ra cùng loại đáp ứng.
Vài nghiên cứu đã xác định sự hiện diện của cả RSV và RNA của Metapneumovirus người trong chất tiết đường hô hấp trẻ nhũ nhi ở một mức cần phải thông khí hỗ trợ và chăm sóc đặc biệt. Có thể là sự đồng nhiễm gây ra bệnh nặng hơn. Phân tích kết quả PCR dương tính phải cắt nghĩa cẩn thận bởi vì sự dương tính này có thể tồn tại trong thời gian kéo dài sau NT, thậm chí khi virus không còn được phát hiện nữa.
Người ta chưa rõ bội nhiễm VK có thường xuyên đóng vai trò nguyên nhân gây bệnh hay không trong bệnh đường hô hấp dưới do RSV. Viêm tiểu PQ cấp do RSV ở trẻ nhũ nhi có lẽ là một bệnh virus riêng biệt, dù có bằng chứng cho rằng viêm phổi VK có thể được gây ra bởi NT virus đường hô hấp, bao gồm RSV. Một nghiên cứu lâm sàng rộng lớn về vaccin phế cầu cho thấy việc chủng vaccin cho TE làm giảm tỷ lệ mắc mới viêm phổi virus đến xấp xỉ 30%, gợi ý rằng sự tương tác virus-VK mà hiện nay chúng tôi chưa hiểu hoàn toàn.
CÁC BIỂU HIỆN LÂM SÀNG
Điển hình, dấu hiệu NT đầu tiên ở trẻ nhiễm RSV là sổ mũi. Ho có thể xuất hiện đồng thời nhưng thường hơn là sau 1-3 ngày, cùng thời gian đó, cũng có thể có khò khè và sốt nhẹ. Sau đó, ho xuất hiện, trẻ bị viêm tiểu PQ bắt đầu khò khè. Nếu bệnh nhẹ, các triệu chứng không tiến triển thêm. Nghe phổi thường phát hiện ran nổ lan tỏa thì hít vào và khò khè thì thở ra. Chảy mũi thường kéo dài suốt thời kỳ bệnh, với sốt ngắt quãng. X quang ngực giai đoạn này thường là bình thường.
Nếu bệnh diễn biến nặng, ho và khò khè nặng hơn và thiếu khí xuất hiện với tăng tần số thở, lồng ngực giãn, bất an và tím ngoại vi. Các dấu hiệu của bệnh nặng đe dọa cuộc sống là tím trung tâm, nhịp thở >70 lần/phút, bơ phờ, và ngưng thở từng đợt. Ở giai đoạn này, lồng ngực căng phồng và khi nghe phổi thấy im lặng vì thông khí kém.
Hình ảnh Xquang của trẻ nhập viện vì viêm tiểu PQ do RSV có dấu hiệu bình thường ở xấp xỉ 30% cas, 70% còn lại là lồng ngực phồng, dày thành PQ, và thâm nhiễm kẽ. Đông đặc thùy hoặc phân thùy thì không thường xuyên và hiếm có tràn dịch màng phổi.
Ở vài trẻ, quá trình bệnh có thể trông giống như viêm phổi, chảy nước mũi và ho đi trước, sau đó khó thở, ăn kém và bơ phờ, khò khè và giãn lồng ngực nhẹ. Dù chẩn đoán LS là viêm phổi, nhưng khò khè thường hiện diện từng đợt và Xquang cho thấy ứ khí.
Sốt là dấu hiệu thay đổi trong NT RSV. Ở trẻ nhũ nhi nhỏ, đặc biệt trẻ đẻ non, từng đợt ngưng thở và thở chu kỳ là những dấu hiệu thường xuyên, thậm chí với viêm tiểu PQ tương đối nhẹ. Ngưng thở không nhất thiết được gây ra bởi kiệt sức hô hấp, nhưng dường như là hậu quả của thay đổi kiểm soát nhịp thở trung tâm.
NT RSV ở người ức chế MD sâu sắc có thể nặng ở bất cứ lứa tuổi nào. Tỷ lệ tử vong do viêm phổi RSV trong w đầu tiên sau cấy mô đặc hoặc tế bào gốc tạo máu ở cả người lớn và TE đều cao. NT RSV không dường như nặng hơn ở bệnh nhân HIV được kiểm soát hợp lý dù những bệnh nhân này có thể thải virus trong thời gian lâu dài.
CHẨN ĐOÁN
Viêm tiểu PQ được chẩn đoán dựa vào LS. RSV có thể nghi ngờ với nhiều mức độ chắc chắn dựa vào mùa trong năm và diện diện virus trong cộng đồng. Các hình ảnh dịch tễ khác có thể có ích là sự hiện diện của trời lạnh trong gia đình và tuổi của trẻ. Các virus đường hô hấp khác mà thường tấn công trẻ trong vài tháng đầu sau đẻ là virus á cúm type 3, Metapneumovirus người, Entero virus, Coronavirus và virus cúm. Rhinovirus thường được tìm thấy trong đường hô hấp trẻ em và có bằng chứng rằng virus này có lẽ góp phần đáng kể vào bệnh đường hô hấp dưới.
Các XN thường quy có lợi ích tối thiểu trong chẩn đoán hầu hết các ca viêm tiểu PQ hay viêm phổi do RSV. BC bình thường hay tăng và số lượng tế bào khác có thể bình thường với nỗi trội hoặc N, hoặc Mono. Giảm Oxy máu được đo bởi monitor ngón tay hay phân tích khí máu thường có và có xu hướng rõ rệt hơn so với dự báo dựa vào dấu hiệu LS. Tăng hoặc bình thường mức CO2 ở BN tăng tần số hô hấp rõ rệt là một dấu hiệu của suy hô hấp.
Mối quan tâm chẩn đoán quan trọng nhất là xác định có liên quan VK, nấm hay không. Khi viêm tiểu PQ không có kèm với thâm nhiễm trên Xquang, ít có khả năng có VK. Ở trẻ 1-4 tháng tuổi, viêm phổi kẽ có thể do Chlamydia trachomatis. Với viêm phổi do Chlamydia trachomatis, có thể có viêm kết mạc và bệnh có xu hướng khởi phát bán cấp. Ho và ran nổ thì hít vào có thể nổi bật, không có khò khè. Sốt thường không có.
Đông đặc thùy phổi mà không có những dấu hiệu khác hoặc kèm theo dịch màng phổi nên được xem là có nguyên nhân VK cho đến khi nguyên nhân khác được chứng minh. Các dấu hiệu khác gợi ý viêm phổi VK là BC N tăng, giảm BC N cùng với bệnh nặng, tắc ruột hoặc dấu hiệu bụng khác, thân nhiệt cao, và suy tuần hoàn. Trong những trường hợp như thế, KS nên được bắt đầu.
Chẩn đoán xác định NT RSV dựa vào phát hiện trong dịch tiết đường hô hấp bằng cách cấy tế bào. Sự hiện diện của RNA virus (phát hiện bằng một kỹ thuật chẩn đoán phân tử dùng PCR chuyển ngược) hay KN virus (phát hiện bằng test chẩn đoán nhanh) hỗ trợ mạnh mẽ cho lâm sàng. Test KN ít nhạy hơn nuôi cấy, trong khi đó PCR thì nhạy hơn nuôi cấy. Hút chất nhầy hay chất rửa mũi họng từ khoang mũi sau của trẻ là mẫu bệnh phẩm tối thuận. Mẫu bệnh phẩm họng hay mũi hầu là ít thích hợp nhưng chấp nhận được. Dịch hút khí quản thì không cần thiết, nhưng dịch rửa ống nội khí quản ở BN đang đặt ống thông khí có thể được sử dụng. Mẫu nên được đặt trên đá lạnh (ice), đưa trực tiếp đến phòng XN và ngay lập tức tiến hành cấy, tìm KN hay phân tích PCR.
ĐIỀU TRỊ
Điều trị những ca viêm tiểu PQ không biến chứng là điều trị triệu chứng. Oxy ẩm và hút đờm giải thường được chỉ định với BN nằm viện có giảm Oxy máu. Nhiều trẻ mất nước nhẹ đến tương đối và vì thế nên được cho dịch với liều lượng cẩn thận, lớn hơn nhu cầu một ít. Thường thì truyền TM hay ăn sonde là có ích khi trẻ bú khó khăn do nhịp thở nhanh.
Có sự chưa đồng ý giữa các chuyên gia về lợi ích của khí dung Saline, Saline ưu trương, Epinephrine, hay kháng β2 trong viêm tiểu PQ do RSV. Hầu hết BN không nhận lợi ích lâu dài từ việc điều trị kéo dài mà với tần suất cao về tác dụng phụ. Liệu pháp Cor. không được chỉ định ngoại trừ ở trẻ lớn hơn đã có chẩn đoán hen bởi vì sử dụng Cor. được cho là có liên quan đến tình trạng virus thải ra kéo dài và không có lợi ích LS được chứng minh.
Trong hầu như tất cả các cas viêm tiểu PQ, KS không hữu hiệu, và sử dụng không thích hợp góp phần vào việc phát triển kháng KS. Viêm phổi kẽ ở trẻ 1- 4 tháng tuổi có thể do C. trachomatis và sử dụng Macrolide có thể được chỉ định.
Ribavirin là tác nhân kháng virus được phun ra qua một lều oxy, mask mặt, hoặc ống nội khí quản với việc sử dụng khí dung hạt nhỏ, nhiều lần trong ngày, trong 3-5 ngày. Các thử nghiệm nhỏ trước đây về sử dụng Ribavirin gợi ý hiệu quả có lợi trong quá trình viêm phổi do RSV, giamr thời gian thở máy và nằm viện. Tuy nhiên, các nghiên cứu sau đó cho rằng không có dữ liệu cho thấy một hiệu quả có lợi rõ ràng của Ribavirin và vì thế thuốc này không còn được sử dụng thường quy nữa trong điều trị bệnh do RSV. KT đơn dòng Palivizumab được cấp phép để dự phòng trẻ nhũ nhi có nguy cơ trong mùa RSV và đã ngăn cản được ½ số BN vào viện trong cộng đồng. Đến nay, các thử nghiệm LS nhỏ về việc sử dung Palivizumab làm thuốc điều trị khi đã có NT chưa cho thấy lợi ích.
TIÊN LƯỢNG
Tỷ lệ tử vong trẻ nhũ nhi NT đường hô hấp dưới nhập viện do RSV là rất thấp ở các nước phát triển. Hầu hết các ca tử vong xảy ra ở trẻ nhỏ, đẻ non hoặc trẻ có bệnh nền của hệ thống TK cơ, phổi, tim mạch hay MD. Tuy nhiên, người ta đánh giá rằng hơn 100.000 trẻ trên thế giới ở các vùng nguồn lúc còn nghèo chết mỗi năm vi RSV. Ngoài ra, hàng ngàn bệnh nhân lớn tuổi hơn chết vì NT RSV mỗi năm ở Mỹ.
Nhiều trẻ bị hen PQ có tiền sử viêm tiểu PQ thời còn nhũ nhi. Có một sự khò khè tái diễn ở khoảng 30-50% trẻ bị viêm tiểu PQ nặng do RSV lúc còn tuổi nhũ nhi. Khả năng tái phát tăng lên khi có hiện diện cơ địa dị ứng (ví dụ: chàm, sốt cỏ mùa, hay tiền sử hen gia đình). Với sự xuất hiện viêm tiểu PQ trên lâm sàng ở BN lớn hơn 1 tuổi, sẽ có tăng khả năng là, dù đợt này có thể do virus, đây là đợt khò khè đầu tiên mà sau đó sẽ được chẩn đoán là bệnh đường thở quá mẫn hay hen PQ. Hen PQ khó được chẩn đoán khi trẻ 1 tuổi. Lúc này, chưa rõ ràng rằng không biết bệnh khò khè nặng do RSV gây nên vài trường hợp hen PQ hay là BN chịu cơn hen hiện tại có triệu chứng ban đầu được bộc ra bởi NT RSV vào thời nhũ nhi. Tuy nhiên, kết quả từ nghiên cứu lâu dài gần đây về trẻ nhũ nhi nhận dự phòng Palivizumab gợi ý rằng việc dự phòng NT RSV nặng làm giảm tỷ lệ mắc mới bệnh đường thở quá mẫn sau này.
DỰ PHÒNG
Trong bệnh viện, phương thức dự phòng quan trọng nhất là ngăn chặn lây truyền BV. Trong mùa RSV, trẻ có nguy cơ cao nên tách biệt với trẻ có triệu chứng hô hấp. Áo choàng, găng tay và rửa tay cẩn thận nên được sử dụng trong chăm sóc tất cả trẻ nhũ nhi với nghi ngờ hoặc xác định NT RSV. Tuân thủ mức độ cao về hạn chế tiếp xúc là cần thiết. Các test virus nên đầy đủ để chẩn đoán bệnh cấp khi nồng độ virus cao, nhưng không được thiết kế để phát hiện mức virus thấp ???( có lẽ mức cao thì dễ lây). Vì thế, hạn chế tiếp xúc nên được quan sát ở hầu hết BN vào viện vì bệnh cấp phân chia theo thời gian nằm viện; test KN nhanh không nên được sử dụng để xác định BN đó có còn cần phải cách ly hay không. Lý tưởng, BN có NT RSV hay Metapneumovir nên cách ly ở nhà vì đồng NT có thể làm bệnh nặng hơn.
Dự phòng MD thụ động
Tiêm Palivizumab 15mg/kg IM, một lần/tháng, KT đơn dòng trung hòa của người chống RSV, được đề nghị để bảo vệ trẻ có nguy cơ cao chống lại các biến chứng nguy hiểm từ nhiễm RSV. Dự phòng MD làm giảm tần số và ngày nằm viện ở 1/2 số trẻ nhũ nhi nguy cơ cao nhiễm RSV. Palivizumab được tiêm hằng tháng từ đầu đến cuối mùa RSV. Theo Hiệp hội Nhi khoa Mỹ 2014, Palivizumab được dự phòng cho trẻ em như sau:
- Trẻ sinh < 29w, trong năm đầu tiên của đời sống.
- Trẻ sinh <29w, có bệnh phổi mãn của trẻ đẻ non (cần FiO2 >21% trong 28j sau đẻ), trong năm đầu tiên của đời sống.
- Trẻ nhỏ hơn 1 tuổi có bệnh lý tim xung huyết có ảnh hưởng huyết động.
- Trẻ 24 tháng tuổi hoặc nhỏ hơn, có tình trạng ức chế MD, trong mùa RSV.
- Trẻ trong năm đầu sau đẻ có hoặc bất thường bẩm sinh đường thở hoặc bệnh TK cơ làm ảnh hưởng đến điều khiển bài tiết hô hấp.
- Tiêm vào năm thứ 2 sau sinh được đề nghị cho trẻ cần 28j hay hơn Oxy sau sinh và có điều trị tiếp tục bệnh phổi mạn.
Vaccin
Chưa có vaccin chống RSV được đăng ký. Thách thức để phát triển vaccin virus sống là tạo ra dòng vaccin được làm yếu đi mà gây nhiễm cho trẻ tại mũi hầu sau khi chủng tại chỗ, mà không tạo ra triệu chứng không chấp nhận được, ổn định gene và tạo bảo vệ chống lại bệnh nặng sau khi tái nhiễm./.
BS. CKII. Nguyễn Đình Thoại
(ảnh RSV minh họa)